Chấm dứt thoát vị đĩa đệm từ thảo dược tươi Việt Nam

Thoát vị đĩa đệm là bệnh lý phổ biến trong cuộc sống hiện nay. Chữa khỏi bệnh thoát vị đĩa đệm nhờ bài thuốc nam chiết xuất hoàn toàn từ thảo dược.

Chữa khỏi bệnh thoát vị nhờ thảo dược Việt Nam

Bài thuốc cổ phương trị bệnh thoát vị đĩa đệm có thành phần quen thuộc là hương nhu tía!

Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm

Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm Đau lưng có thể được gây ra bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau, vì thế nếu như cơn đau của bạn kéo dài hơn 1 tuần.

Các phương pháp điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Khi điều trị thoát vị đĩa đệm thắt lưng có thể lưu ý đến phương pháp điều trị nội khoa, tập thể dục điều trị.

Chấm dứt thoát vị đĩa đệm từ thảo dược tươi quen thuộc

Thoát vị đĩa đệm là bệnh lý phổ biến trong cuộc sống hiện nay. Chữa khỏi bệnh thoát vị đĩa đệm nhờ bài thuốc nam chiết xuất hoàn toàn từ thảo dược Việt.

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Thuốc chữa thoái hóa cột sống cổ

Thoái hoá cột sống cổ là một bệnh thường gặp ở người trung, cao tuổi. Tổn thương thoái hoá của sụn khớp gây ra do quá trình sinh tổng hợp chất cơ bản (proteglycan) bởi các tế bào sụn có sự bất thường. Đặc trưng của bệnh là quá trình mất sụn khớp của lớp tế bào dưới sụn; tổ chức xương cạnh khớp được tạo mới. Ở thoái hoá cột sống, có sự kết hợp giữa hai loại tổn thương mang tính định khu đó là thoái hoá đĩa đệm và thoái hoá mỏm liên sau.


Bệnh thường kèm theo các hội chứng ép rễ tại vùng cột sống, do tuỷ sống nằm trong ống sống quá hẹp. Nguyên nhân hẹp ống sống thường gặp nhất là do thoái hóa cột sống, với các gai xương làm cho khẩu kính của ống sống giảm đi. Thoát vị đĩa đệm làm tăng thêm bệnh cảnh lâm sàng của thoái hoá cột sống.

Trên lâm sàng các hội chứng thường phong phú, trong đó bao gồm hội chứng rễ chiếm tỉ lệ cao nhất khoảng 72%, sau đó đến hội chứng thiểu năng tuần hoàn sống - nền, hội chứng cột sống cổ đơn thuần (đau tại cột sống cổ, kiểu cơ học kéo dài), ngoài ra, có thể gặp triệu chứng đau ngực:

- Triệu chứng đau rễ thần kinh cổ cánh tay: Gặp trên 70% bệnh nhân thoái hoá cột sống cổ có thoát vị đĩa đệm, tổn thương chủ yếu ở các đốt từ C5 đến C7, đau thường xuyên xuất hiện từ từ, lan dần từ cổ xuống vai, cánh tay, cẳng tay, ngón tay, tê bì các ngón 4,5. Đsu 1 bên, ở một vị trí cố định, ngoài ra bệnh nhân còn có cảm giác đau ngoài da vùng thoát vị đĩa đệm, biểu hiện rối loạn vận mạch, rối loạn dinh dưỡng như toát mồ hôi, nôn nao, chóng mặt, teo cơ các vùng chi bị chi phối bởi các nhánh thần kinh ở vị trí tổn thương của cột sống như teo cơ ô mô cái, rối loạn phản xạ cơ tam đầu, gân cơ nhị đầu…

- Nhức đầu chủ yếu vùng chẩm, lan ra thái dương, trán, hố sau mắt, đau tăng khi có thay đổi tư thế, không có dấu hiệu tổn thương thần kinh

- Hội chứng rối loạn thần kinh giao cảm cổ: Nhức đầu, hoa mắt chóng mặt ù tai, mờ mắt, loạn cảm họng, nuốt vướng.

- Đau ngực, đau vùng bả vai lan ra ngực trái, có thêr lan xuống cánh tay, đau tương tự như cơn đau do co thắt mạch vành tim nhưng các xét nghiệm về điệntâm đồ hoàn toàn bình thường

- Nếu có dấu hiệu chèn ép tuỷ cổ: Bệnh nhân thường thấy có dấu hiệu liệt nửa người hoặc tứ chi tăng dần. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào hinh ảnh chụp cắt lớp vi tính hoặc MRI

Lưu ý: Hình ảnh Xquang không thể nhìn thấy được các hình ảnh tổn thương do chèn ép tuỷ, chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh hẹp các khe khớp, hẹp lỗ liên hợp các ống sống, hình ảnh chồi xương, mọc thêm xương. Bệnh có thể chủ yếu điều trị nộị khoa tức là dùng thuốc kết hợp với các phương pháp không dung thuốc khác, cũng như cần được khám, chẩn đoán loại trừ các trường hợp phải can thiệp ngoại khoa.

Các thuốc điều trị thoái hoá cột sống cổ:

1/ Thuốc điều trị tác dụng nhanh:
- Thường dùng các thuốc chống viêm không steroid như Voltaren, Felden, Diclophenac…trong đó cácthuốc có thời gian bán huỷ nhanh thường tốt hơn loại chậm, liều dùng cần giảm liều ở người già và thận trọng với những người suy gan, tim, thận,. Nếu dùng kéo dài thì phải phát hiện các tác dụng phụ bằng cách cứ 6 đến 8 tháng phải làm xét nghiệm công thức máu, chức năng thận, man gan. Đối với người có bệnh lý dạ dày tá tràng, thuốc có thể gây xuất huyết tiêu hoá,có thể hạn chế bằng các đồng đẳng của Prostaglandin E1(Cytotex)

- Các thuốc giảm đau: Đóng vai trò quan trọng trong điều trị thoái hoá khớp nói chung, nhóm này ít độc với dạ dày và thận hơn là nhóm thuốc chống viêm không steroid, cách dùng thuốc giảm đau cũng tuân theo sơ đồ bậc thang của OMS (thăm dò để tìm ra liều tối thiểu mà có tác dụng điều trị trên bệnh nhân), thuốc thường dùng là Paracetamol.

2/ Thuốc chống thoái khớp tác dụng chậm: Đây là một nhóm thuốc điều trị mới, được đặc trưng bởi hiệu quả đối với triệu chứng xuất hiện muộn (trung bình khoảng 2 tháng), tuỳ từng laọi thuốc cụ thể mà có tác dụng chủ yếu là kích thích tế bào sụn khớp sản xuất ra proteoglycan có cấu trúc bình thường hoặc có tác dụng giảm huỷ sụn khớp, hoặc có tác dụng bôi trơn và bao phủ sụn khớp, ngăn cản sự mất proteoglycan bởi các khuôn sụn… Hiệu quả này được duy trì cả sau khi ngừng điều trị(sau 2 đến 3 tháng). Tuy nhiên, thường thuốc phải được dùng kéo dài từ 1 đến 2 tháng hoặc hơn nữa trong một liều trình, thuốc thường được dung nạp tốt, ít tác dụng phụ, gồm một số các thuốc như sau: Glucosamin sulphat; Chondroitine suphat, Acide Hyaluronic…
 

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Thoái hóa cột sống

Thoái hóa cột sống là bệnh lý mà hầu hết chúng ta đều mắc phải. Đây là một quá trình lão hóa cột sống xảy ra đồng thời với sự già đi của cơ thể.

Bệnh gây đau khớp, viêm khớp, hẹp khe khớp, mọc gai xương ở các đốt sống, làm giảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Cột sống gồm 33 - 34 đốt sống, trong đó có 7 đốt sống cổ, 12 đốt sống ngực, 5 đốt sống thắt lưng, các đốt sống cùng và cụt dính liền với nhau và tạo thành xương cùng và xương cụt. Các đốt sống kết nối với nhau bằng các dây chằng và được nâng đỡ bởi hệ thống cơ từ xương sọ tới xương chậu. Phía sau cột sống là ống sống, bên trong ống sống chứa tủy và các rễ thần kinh, mạch máu.

Cột sống bị thoái hóa như thế nào?

Thoái hóa cột sống không phải là một bệnh mà là tình trạng lão hóa của xương khớp. Cột sống đồng thời vừa phát triển vừa thoái hóa trong suốt quá trình phát triển của cơ thể, nhưng tùy theo lứa tuổi mà sự phát triển hay sự thoái hóa nhiều hơn. Người ta thấy rằng cột sống bắt đầu thoái hóa từ năm 2 tuổi, sau đó tuổi càng cao thì quá trình thoái hóa càng nhiều.
Sự thoái hóa làm cho bao xơ của đĩa đệm bị dòn và nứt nẻ, tạo khe hở cho nhân nhầy ở bên trong thoát ra ngoài, gây nên thoát vị đĩa đệm. Các dây chằng thoái hóa cũng bị dòn, cứng, giảm độ đàn hồi, phình to ra, chất vôi lắng đọng lại hoặc hóa xương trở nên sần sùi, chèn ép vào các rễ thần kinh trong ống sống hoặc trong lỗ liên hợp, hay chèn vào các đầu dây thần kinh có ngay trong các dây chằng gây ra chứng đau.
Các yếu tố nguy cơ tác động lên quá trình thoái hóa cột sống gồm: ô nhiễm môi trường, các hóa chất độc hại trong thức ăn, nước uống, các chất kích thích như thuốc lá, rượu, bia, bệnh viêm khớp… làm cho quá trình thoái hóa diễn ra nhanh hơn, nặng hơn.  Những người ít vận động, làm các công việc có cử động đơn điệu lặp đi lặp lại, người béo phì… cũng làm quá trình thoái hóa của cột sốngngày càng trầm trọng.

Thoái hóa cột sống có thể gây ra các bệnh đi kèm như thoái hóa dây chằng và mấu khớp, thoái hóa dạng chồi xương thân đốt sống, thoát vị đĩa đệm… Bệnh thoái hóa cột sống thường gặp ở người trên 30 tuổi, nhưng mỗi lứa tuổi thường có loại bệnh đặc trưng như: thoát vị đĩa đệm gặp nhiều ở độ tuổi 30 - 40; thoái hóa dây chằng lại hay xảy ra ở những người 50 - 60 tuổi; thoái hóa thân đốt sống và thoái hóa phì đại khớp thường thấy ở lứa tuổi trên 60…
Thoái hóa cột sống gây ra thoát vị đĩa đệm, từ đây sinh ra gai cột sống và đau thần kinh tọa.
Gai cột sốngthoái hóa cột sống làm cho thoái hóa bao xơ của đĩa đệm, dẫn đến bao xơ bị dòn, nứt nẻ, tạo khe hở để nhân nhầy thoát ra ngoài, gây nên thoát vị đĩa đệm. Khối thoát vị lồi ra kéo theo màng xương cạnh nó, sau một thời gian xương sẽ mọc ra theo tạo thành những vành xương tạo thành “gai cột sống”. Chụp X-quang sẽ thấy hình ảnh những cái gai nhọn.
Trường hợp khối thoát vị đĩa đệm gây đau nặng hay tê yếu, bệnh nhân phải đi khám và được điều trị sớm nên tránh được gai cột sống. Trái lại các khối thoát vị không gây ra triệu chứng gì do không gây chèn ép vào thần kinh nên bệnh âm thầm tiến triển tạo ra những cái “gai cột sống”. Tuy nhiên chỉ những trường hợp “gai cột sống ” gây đau mới cần phải phẫu thuật cắt bỏ gai.
Đau thần kinh tọa: dây thần kinh tọa còn gọi là dây thần kinh hông to là dây thần kinh to nhất của cơ thể, nó được tạo thành bởi các rễ thần kinh của vùng thắt lưng hợp lại, chạy dọc theo mặt sau mông, đùi xuống chân. Một nguyên nhân gây đau thần kinh toạ là do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng gây ra. Khi khối thoát vị chèn ép vào các rễ tạo thành thần kinh tọa sẽ gây ra đau thần kinh tọa. Biểu hiện đau thần kinh tọa là đau từ thắt lưng lan xuống mông, xuống chân, có thể kèm theo tê, yếu chân hoặc teo cơ.
Tuy nhiên, đau thần kinh tọa còn có thể do các nguyên nhân khác như: hẹp ống sống, viêm khớp cột sống, viêm đĩa đệm, viêm thần kinh tọa, u thần kinh tọa gây ra.
Khối thoát vị đĩa đệm ở vùng cổ thì có thể gây ra đau cổ, vai, tay; thoát vị ở vùng ngực gây đau thần kinh liên sườn; thoát vị đoạn thắt lưng gây ra đau, tê hoặc yếu liệt chân.
Thoái hóa cột sống còn có thể gây ra đau lưng, đau cổ hoặc gây ra đau thần kinh tọa và các bệnh lý khác mà không cần phải có thoát vị đĩa đệm.

Cách phòng và chữa bệnh

Phòng bệnh cần thực hiện các biện pháp: giảm cân nặng, chống béo phì. Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao nhẹ nhàng, 3 lần một tuần hay tốt nhất là hàng ngày làm giảm đáng kể nguy cơ thoái hóa cột sống. Thực hiện chế độ ăn đảm bảo dinh dưỡng hợp lý, phòng chống loãng xương, tránh dùng các phụ gia độc hại trong thực phẩm. Hạn chế hoặc bỏ hút thuốc, rượu bia. Lao động phù hợp với sức khoẻ, những nghề có thể gây thoái hóa cột sống sớm như khuân vác, gánh nặng, đội nặng… cần kiểm tra thường xuyên để điều trị kịp thời các tổn thương cột sống.
Về điều trị: sử dụng các phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, chườm ngải cứu, dán cao, thuốc bôi, xoa ngoài...
Điều trị nội khoa, có thể dùng một hoặc vài loại phối hợp trong số các  thuốc sau: acetaminophen, salicylat, diclofenac, các thuốc chống viêm không steroid khác. Thuốc bổ sung chất nhầy cho khớp như những chế phẩm có cấu trúc phân tử gần giống như dịch khớp. Thuốc dinh dưỡng sụn khớp: glucosamine, sụn cá mập có tác dụng tăng cường tái tạo sụn, ức chế các men phá hủy sụn, giảm dần quá trình viêm đau khớp, làm chậm quá trình thoái hóa khớp. Phẫu thuật điều trị thoát vị đĩa đệm, cắt bỏ gai cột sống, giải phóng chèn ép thần kinh.

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống

Thoát vị đĩa đệm cột sống là bệnh thường gặp trong xã hội hiện nay. Nguyên nhân gây ra bệnh có rất nhiều như phải ngồi làm việc nhiều trong điều hòa, vận động ít, ăn uống thiếu lành mạnh, bia rượu, thuốc lá… khiến thoát vị đĩa đệm ngày càng phổ biến và trẻ hóa. Cần nhận biết một số triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống để có thể điều trị bệnh hiệu quả.

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống

Theo thống kê cho thấy, thoát vị đĩa đệm phụ thuộc các yếu tố như: nam giới bị nhiều hơn nữ. Thường gặp ở độ tuổi lao động từ 20 – 50 tuổi. Dưới 18 và trên 60 tuổi rất hiếm gặp. Những người làm việc nặng nhọc, tư thế làm việc buộc cột sống vận động quá giới hạn như quá ưỡn, quá khom người, vẹo cột sống; đặc biệt sự thoái hoá đĩa đệm. Nói chung theo thời gian đĩa đệm sẽ thoái hoá nhưng nhanh hay chậm tùy thuộc từng người, nếu chấn thương thì đĩa đệm thoái hoá nhanh hơn. Do đó có người thoát vị rất sớm dù không phải lao động nặng.

Thoát vị đĩa đệm cột sống thường gặp ở 2 vị trí đó là thoát vị đĩa đệm cột sống cổ và thoát vị đĩa đệm cột sống lưng.

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống cổ.

1. Triệu chứng chủ quan:

+ Đau cổ cục bộ.

- Đau xuất hiện sớm và thường là triệu chứng đầu tiên của bệnh:

Đau từ đĩa đệm (đau do mất tải trọng) là do đĩa đệm (đã bị thoái hoá) tăng hấp thu dịch thể sẽ bị chứa căng nước, phình lên, chèn vào dây chằng dọc sau (rất nhạy cảm với đau), nhưng khi ngồi dậy và vận động cột sống cổ, sự cân bằng áp lực sẽ nhanh chóng được hồi phục lại, các biểu hiện đau sẽ mất đi.

- Đau khu trú ở vùng gáy lan lên chẩm hoặc xuống vai.
- Tính chất đau: đau rát, đau nông ở vùng do rễ thần kinh cổ chi phối (neuralgia) hoặc đau sâu trong cơ (myalgia) vai, gáy.
- Đau tăng khi vận động cột sống cổ.
- “Đau cổ cục bộ” gồm:
- Đau vùng gáy cấp tính hay vẹo cổ cấp:

. Khởi phát sau lao động nặng, bị lạnh.
. Đau vùng gáy một bên, đau lan lên chẩm, đầu có thể ngoẹo về một bên không quay được, thường khỏi sau vài ngày, dễ tái phát.
- Đau vùng gáy mạn tính:
. Đau âm ỉ khi tăng, khi giảm, lan ít.
. Hạn chế vận động cột sống cổ khi gấp, duỗi, nghiêng, xoay, đôi khi thấy lạo xạo khi quay cổ.

2. Triệu chứng khách quan:

- Có điểm đau cột sống (khi ấn mỏm gai cột sống cổ).
- Có điểm đau cạnh sống.
- Có cứng cơ cạnh sống.
- Có tư thế chống đau: nghiêng đầu về một bên đau, vai bên đau nâng cao hơn bên lành.
- Đau tăng lên khi vừa ấn đầu bệnh nhân xuống vừa gấp, duỗi, nghiêng, xoay cổ.

Nghiệm pháp Schpurling: vừa quay vừa ấn đầu xuống: đau tăng lên.

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống lưng.

- Có yếu tố chấn thương cột sống thắt lưng từ từ hay đột ngột.

- Bệnh nhân đau thắt lưng theo đường đi của rễ, dây thần kinh hông to, đau có tính chất cơ học (đau tăng khi vận động, ho, hắt hơi, giảm khí nghỉ ngơi).

- Có hội chứng cột sống thắt lưng: lệch vẹo cột sống thắt lưng, co cứng cơ cạnh sống, tầm vận động cột sống thắt lưng giảm, có điểm đau cột sống, chỉ số Schober giảm dưới 13/10, khoảng cỏch ngón tay – mặt đất tăng.

- Có hội chứng rễ thần kinh thắt lưng cùng: có điểm đau cạnh sống, dấu hiệu “bấm chuông” dương tính, điểm đau Valleix dương tính, nghiệm pháp Lasègue dương tính. Rối loạn vận động, cảm giác, phản xạ, dinh dưỡng tuỳ theo rễ L5 hay S1 bị tổn thương.

+ Nếu tổn thương rễ L5: có điểm đau cột sống L5, điểm đau cạnh sống L4 – L5, dấu hiệu “chuông bấm” dương tính, yếu sức cơ gấp bàn chân về phía mu chân, yếu cơ duỗi các ngón chân, nghiệm pháp đứng trên gót chân dương tính, giảm cảm giác vùng trước ngoài cẳng chân, mu bàn chân đến ngón 1, ngón 2, teo cơ trước ngoài cẳng chân, không có rối loạn phản xạ gân xương.

+ Nếu tổn thương rễ S1: có điểm đau cột sống S1, điểm đau cạnh sống L5 – S1, dấu hiệu “chuông bấm” dương tính, yếu nhóm cơ dép không gấp bàn chân về phía gan chân được, yếu cơ gấp bàn chân, nghiệm pháp đứng trên mũi chân dương tính, giảm cảm giác (vùng gót chân, gan bàn chân, ngón 4, ngón 5), teo cơ dép, giảm phản xạ gân gót.

Cần phát hiện sớm các triệu chứng thoát vị đĩa đệm để giúp người bệnh có thể nhanh chóng đẩy lùi những cơn đau của bệnh.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

Các phương pháp điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm thắt lưng

Khi điều trị  thoát vị đĩa đệm thắt lưng có thể lưu ý đến phương pháp điều trị nội khoa, tập thể dục điều trị.


Điều trị nội khoa

- Chế độ vận động: trong thời kỳ cấp tính, bệnh nhân cần nằm nghỉ tại giường 1-2 tuần.

- Điều trị vật lý: tia hồng ngoại, bó paraphin, chườm nóng bằng cám rang, muối rang hoặc ngải cứu.

- Dùng dòng điện: sóng ngắn, điện xung, điện phân.

- Châm cứu giảm đau, tia lase

- Dùng các thuốc giảm đau, chống viêm, vitamin nhóm B. Phong bế tại chỗ bằng novocain.

Phương pháp nắn chỉnh cột sống: kết hợp giữa y học hiện đại và y học cổ truyền. Người thầy thuốc chỉ dùng tay để chữa bệnh.


Thể dục điều trị: sau thời gian cấp tính, cần tiến hành thể dục điều trị, nhằm cải thiện chức năng của các cơ giữ tư thế cho cột sống, hạn chế biến dạng cột sống, chống teo cơ. Có thể tập theo các bài thể dục sau:

Bài 1: tập căng giãn cột sống

- Động tác 1: nằm ngửa trên giường, cẳng chân gấp vào đùi, 2 tay kéo đầu gối áp sát vào ngực. Đầu và phần trên thân nhấc lên và uốn cong về phía bụng.

- Động tác 2: đẩy 1 chân xuống giường, dùng 2 tay kéo chân kia về phía ngực, rồi đổi bên.

- Động tác 3: ngồi trên giường, gấp 2 chân sát gót vào mông, 2 tay ôm đầu gối, đầu và thân gấp tối đa.

- Động tác 4: tư thế đứng, 2 chân rộng bằng vai, một tay duỗi theo thân, tay kia giơ lên phía sau đầu, cẳng tay vuông góc với cánh tay, nghiêng tối đa sang bên tay xuôi rồi đổi bên.

Bài 2: tập nâng khung chậu

Nằm ngửa, 2 chân hơi co, chống xuống giường bằng 2 bàn chân, đẩy cong thắt lưng và nâng khung chậu lên khỏi mặt giường, trong khi vùng lưng vẫn áp xuống mặt giường.

Bài 3: tập căng cơ bụng

Nằm ngửa, 2 chân hơi co, áp bàn chân xuống mặt giường, 2 tay xuôi theo chân, từ từ ngồi dậy. Ngày tập 2-3 lần với cường độ và tốc độ tăng dần.

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

Người bệnh thoát vị đĩa đệm cần phải chú ý những gì?


Các chuyên gia nhắc nhở, bệnh nhân mắc bệnh thoát vị đĩa đệm khi ngồi trên xe phải luôn luôn chú ý bảo vệ vùng lưng, bởi vì độ rung xóc của xe có thể làm cho tình trạng thoát vị đĩa đệm nặng lên. Tập thể dục thích hợp với vùng lưng và bụng, sẽ làm tăng sự khỏe mạnh của cơ bắp vùng lưng, điều này rất có ích đối với việc phục hồi của bệnh nhân thoát vị đĩa đệm.

Người bệnh trước và sau khi tiến hành điều trị thoát vị đĩa đệm cần chú ý những điểm sau :

1. Trong quá trình điều trị thoát vị đĩa đệm bệnh nhân phải nằm ở trên giường nghỉ ngơi, ăn uống đại tiểu tiện tại chỗ, tránh làm tăng gánh nặng cho đốt sống lưng

2. Khi lựa chọn giường cho bệnh nhân thoát vị đĩa đệm phải chọn giường cứng, sử dụng một lớp đệm mỏng vừa phải, tránh nằm giường mềm, ngủ ở tư thế nằm ngửa co gối là thích hợp nhất, phải nắm rõ tư thế lên xuống giường chính xác. 

3. Những triệu chứng như ho, hắt hơi hoặc đại tiểu tiện phải dùng sức, trước đó cần phải chú ý đến việc bảo vệ vùng lưng, ví dụ hai tay giữ lưng, tránh làm cho vùng lưng chịu sự chấn động mạnh dẫn đến tái phát bệnh .

4. Nếu đang điều trị thoát vị đĩa đệm, bệnh nhân nên đeo đai lưng khi ra khỏi giường, cho dù có làm việc hay không đều phải tăng cường bảo vệ lưng, tránh cho lưng bị tổn thương, thời gian đeo đai lưng không được vượt quá 3 tháng để phòng cơ lưng bị teo.

5. Duy trì tư thế đứng và tư thế đi lại đúng cách, thay đổi những tư thế không thích hợp. Trong sinh hoạt hàng ngày, không nên giữ một tư thế quá lâu, nên thường xuyên thay đổi tư thế hoặc nghỉ ngơi, tránh gây tổn thương cơ lưng.

6. Bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cần một môi trường sống và làm việc tốt, trong nhà cần phải giữ ấm, khô ráo, tránh ẩm thấp, thời tiết thay đổi cần chú ý ăn mặc phù hợp.

7. Người làm việc chân tay nên tăng cường ý thức bảo vệ lưng, thay đổi phương thức làm việc, tránh làm những công việc ảnh hưởng nặng gây áp lực cho vùng lưng, nên đổi sang công việc nhẹ nhàng hơn

Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013

Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống như thế nào?

Có nhiều nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống, trong đó phải kể đến các nguyên nhân hàng đầu là các chấn thương cột sống, sau đó là các tư thế xấu trong lao động.

Việc điều trị thoát vị đĩa đệm tùy theo tính chất tổn thương, vị trí, biến chứng cũng như mức độ ảnh hưởng tới khả năng vận động, lao động và sinh hoạt của người bệnh mà cân nhắc tới các biện pháp điều trị bảo tồn và điều trị can thiệp phẫu thuật.

Điều trị bảo tồn bao gồm các biện pháp như: nghỉ ngơi; vật lý trị liệu xoa bóp, tắm suối khoáng, đắp bùn; chiếu đèn hồng ngoại, sóng ngắn, điện phân, đắp dầu paraphin... Có thể dùng các biện pháp như tác động cột sống, kéo giãn cột sống trong điều trị bệnh.

Ở một vài tuần đầu tiên, khi tổn thương thoát vị đĩa đệm còn mới chưa bị xơ hóa, việc tác động cột sống làm giãn các mâm sống và dịch chuyển phần đĩa đệm bị lồi trở lại vị trí bình thường. Kéo giãn cột sống bằng dụng cụ cũng có tác dụng tương tự, chỉ định cho lồi hoặc thoát vị đĩa đệm. Mặc áo nẹp cột sống có tác dụng cố định tạm thời, hạn chế các động tác lên vùng cột sống tổn thương, qua đó giảm lực tác động lên đĩa đệm.

Biện pháp dùng thuốc bao gồm các thuốc giảm đau đơn thuần như paracetamol; giảm đau chống viêm không steroid như diclofenac, meloxicam... uống, tiêm hoặc bôi tại chỗ. Lưu ý, các thuốc trên dùng đường toàn thân có thể ảnh hưởng tới dạ dày, chức năng gan, thận... Các thuốc giãn cơ như mydocalm, myonal được chỉ định trong trường hợp co cứng cơ cạnh cột sống. Có thể bổ sung các thuốc bổ thần kinh như vitamin B1, B6, B12; các thuốc giảm đau thần kinh như neurontin.

Nhìn chung không có chỉ định dùng thuốc giảm đau chống viêm loại steroid như prednisolon, dexamethason... đường toàn thân vì có nhiều tác dụng phụ. Đối với đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, có thể áp dụng biện pháp dùng thuốc tại chỗ là tiêm ngoài màng cứng bằng hydrocortison với liệu trình mỗi đợt 3 mũi, mỗi mũi cách nhau 3-7 ngày cũng cho hiệu quả giảm đau khá tốt. Tuy nhiên việc tiêm ngoài màng cứng phải được thực hiện tại cơ sở chuyên khoa khớp có kinh nghiệm, trong điều kiện tuyệt đối vô khuẩn.

Gần đây người ta bắt đầu sử dụng tia laser, sóng radio qua da để điều trị đau do thoát vị đĩa đệm. Đây là các phương pháp an toàn, tuy nhiên chỉ có hiệu quả khi chỉ định trong những trường hợp nhẹ, nhân nhầy mới chỉ lồi vào ống sống và không có các tổn thương kèm theo như gai xương, xẹp trượt đốt sống, hay phối hợp dày dây chằng vàng.

Phương pháp phẫu thuật ngoại khoa được chỉ định trong các trường hợp sau: thoát vị đĩa đệm gây hội chứng đuôi ngựa (biểu hiện bí đại tiểu tiện, mất cảm giác đau xung quanh hậu môn và bộ phận sinh dục); có liệt chi; đau quá mức, các thuốc giảm đau không hoặc rất ít tác dụng; sau khoảng 6 tháng áp dụng các biện pháp điều trị nội khoa không có kết quả.







Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

Hậu quả của bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Thoát vị đĩa đệm là một bệnh rất nguy hiểm không thể xem nhẹ, đây là nguyên nhân gây đau cột sống cổ, cột sống thắt lưng, đau chân  tay… Bệnh có thể gây ra nhiều biến chứng, rối loạn khác nhau, vì vậy khi phát hiện bệnh phải xử lý kịp thời tránh nguy hiểm cho người bệnh.

  • Nguyên nhân và ảnh hưởng của bệnh thoát vị đĩa đệm

Hậu quả do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Thoát vị đĩa đệm ở cột sống thắt lưng thì gọi là thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, bệnh để lại những hậu quả sau:
1. Đau rễ thần kinh.
Đau ở rể thần kinh phản ánh một quá trình tổn thương kích thích rễ thần kinh. Có thể do chèn ép cơ học (thoát vị đĩa đệm, chèn ép do xương); do viêm rễ, viêm ngoài màng cứng, viêm màng nhện của tủy sống; do u rễ. Đau rễ thần kinh thường đau theo dải, lan từ thắt lưng xuống chân, tương ứng với vùng phân bố của rễ thần kinh.
Đau rễ thần kinh xuất hiện sau giai đoạn đau thắt lưng cục bộ, đau tăng lên khi đi lại, đứng lâu, ngồi lâu. Đau dội mạnh lên khi ho, hắt hơi, rặn đại tiện. Nằm nghỉ tại giường lại giảm đau nhanh chóng. Đó là kiểu đau mang tính chất cơ học, thường gặp trong cơ chế xung đột giữa đĩa đệm với rễ thần kinh do thoát vị đĩa đệm.
Đau rễ thần kinh có thể xuất hiện khi đi được một đoạn làm bệnh nhân phải dừng lại để nghỉ. Khi đi tiếp một đoạn nữa, đau lại xuất hiện, buộc bệnh nhân phải nằm nghỉ. Người ta gọi đó là hội chứng đau khập khễnh cách hồi.
2. Rối loạn cảm giác
Thường gặp là giảm cảm giác nông (nóng, lạnh, xúc giác) ở những khu vực khoang da tương ứng với rễ thần kinh bị tổn thương. Đây là biểu hiện mức độ tổn thương sâu sắc của rễ thần kinh.
3. Rối loạn vận động :
Biểu hiện là bệnh nhân bị bại và liệt cơ ở hai chân do rễ thần kinh chi phối.
4. Rối loạn cơ thắt:
Trong tổn thương các rễ vùng xương cùng (rễ S3, S4, S5) có biểu hiện lúc đầu bí tiểu sau đái dầm dề, luôn luôn có nước tiểu chảy rỉ ra một cách thụ động do liệt cơ thắt kiểu ngoại vi không giữ được nước tiểu.
5. Có 3 hội chứng đuôi ngựa tùy theo tầng thoát vị đĩa đệm, có các hội chứng khác nhau:
Hội chứng đuôi ngựa trên: Triệu chứng là liệt ngoại vi toàn bộ ở hai chân, rối loạn cảm giác hai chân từ nếp bẹn trở xuống, rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi. Thể này ít gặp vì thoát vị đĩa đệm ở đoạn cao (L1 – L2 và L2 – L3) ít có điều kiện xảy ra.
Hội chứng đuôi ngựa dưới: Do thoát vị đĩa đệm L5 – S1, có rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi, rối loạn cảm giác vùng đáy chậu, không có liệt hoặc chỉ liệt một số động tác của bàn chân (rễ L5, S1, S2).
Hội chứng đuôi ngựa giữa: Thường gặp do thoát vị đĩa đệm L3 – L4 và L4 – L5. Liệt gấp cẳng chân, liệt các động tác của bàn chân và ngón chân, mất cảm giác toàn bộ ngón chân; mất cảm giác toàn bộ cẳng chân, bàn chân, mặt sau đùi và mông; rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi.
Chẩn đoán xác định viêm đa rễ thần kinh dựa trên cơ sở lâm sàng và các kỹ thuật cận lâm sàng như chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ…

Chữa trị bằng các biện pháp kết hợp

Chế độ vận động: Trong thời kỳ cấp tính, nằm nghỉ tại giường là nguyên tắc quan trọng đầu tiên. Tư thế nằm ngửa trên ván cứng, có đệm ở vùng khoeo làm co nhẹ khớp gối và khớp háng.
Điều trị vật lý và các liệu pháp phản xạ : Bao gồm phương pháp nhiệt như chườm nóng (túi nước, muối rang, cám rang, lá lốt, lá ngải cứu nóng); dùng các dòng điện tại khoa vật lý trị liệu, điều trị bằng laser; châm cứu.
Dùng thuốc: Chủ yếu là dùng các loại thuốc chống viêm, giảm đau, giãn cơ, an thần, trấn tĩnh thần kinh và vitamin nhóm B liều cao (B1, B6, B12). Các thuốc này đều có những chống chỉ định nên phải do thầy thuốc chuyên khoa sử dụng.
Các biện pháp điều trị đặc hiệu khác đều phải điều trị nội trú tại các trung tâm chuyên khoa thần kinh và phẫu thuật thần kinh.

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Điều trị và chăm sóc thoát vị đĩa đệm cột sống

Cách điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống

Thoát vị đĩa đệm cột sống xảy ra khi nhân keo của đĩa đệm thoát ra ngoài và chèn ép vào rễ thần kinh, tủy sống. Những chấn thương như ngã ngồi, trượt chân, cố sức nâng vật nặng... có thể gây bệnh.
Phương pháp điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm thắt lưng
Khi điều trị  thoát vị đĩa đệm thắt lưng có thể lưu ý đến phương pháp điều trị nội khoa, tập thể dục điều trị.
Điều trị thay thế và hỗ trợ với bệnh thoát vị đĩa đệm
Là những phương pháp điều trị như: châm cứu, ấn huyệt và massage có thể làm giảm đau do thoát vị hoặc lồi đĩa đệm. Điều trị thay thế có thể không chỉ giúp bạn thư giãn và hết đau mà còn có thể giúp bạn tránh phải phẫu thuật. Đối với thoát vị đĩa đệm, bạn có thể thử các phương pháp sau:
Điều trị thoát vị đĩa đệm bằng thuốc
Đĩa đệm bị thoát vị thường đè ép lên các rễ thần kinh xung quanh gây đau và phù nề. Độ nặng của triệu chứng giúp xác định loại thuốc cần dùng và có nhiều khả năng để lựa chọn. Nhưng cần phải lưu ý rằng thuốc không giúp chữa hết thoát vị đĩa đệm mà nó chỉ làm giảm đau mà thôi.
Điều trị bằng cách Tập thể dục
Thể dục là yếu tố quan trọng trong điều trị thoát vị đĩa đệm. Đóng vai trò chủ động trong quá trình hồi phục của mình bằng những hoạt động thể thao sẽ làm giảm đau và giúp bảo đảm cho lưng của bạn được khỏe mạnh lâu dài.
Sử dụng Vật lý trị liệu trong điều trị thoát vị đĩa đệm
Vật lý trị liêu thường đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi thoát vị đĩa đệm. Những phương pháp của nó không chỉ giúp giảm đau lập tức mà còn dạy bạn cách huấn luyện cơ thể và phòng ngừa tổn thương. Có nhiều kỹ thuật vật lý trị liệu. Trị liệu thụ động có tác dụng thư giãn cơ thể bằng cách massage các mô sâu, nóng và lạnh liệu pháp, kích thích điện (TENS) và thủy liệu pháp.
Điều trị thoát vị địa đệm bằng phương pháp phẫu thuật
Mặc dù hầu hết bệnh nhân thoát vị đĩa đệm đáp ứng tốt đối với những cách điều trị không cần phẫu thuật nhưng một số trường hợp vẫn đòi hỏi phải được phẫu thuật. Nói chung, phẫu thuật chỉ nên được xem xét sau vài tháng điều trị bằng những cách khác.
Điều trị thoái hoá đĩa đệm cột sống
Bệnh nhân nên thực hiện theo những cách dưới đây nhằm làm giảm các triệu chứng đau lưng, đau chân hay khó chịu do đĩa đệm thoát vị gây ra.
Chữa thoát vị đĩa đệm bằng Laser
Người ta cho rằng sau khi dùng laser đốt cháy một phần đĩa đệm, áp lực trong đĩa đệm giảm xuống làm cho khối thoát vị nhỏ lại, không còn chèn ép để gây đau nữa.

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Thoát vị đĩa đệm và những hậu quả khó lường

Thoát vị đĩa đệm nhiều tầng - một bệnh lý lâm sàng rất phức tạp, đa dạng, nhất là trường hợp khối lượng thoát vị quá to gây chèn ép tủy sống và đuôi ngựa. Đây là chùm hội tụ nhiều rễ thần kinh thắt lưng - cùng gây đau đớn cho người bệnh tới cực điểm, đòi hỏi phải xử trí cấp cứu kịp thời.
Hậu quả do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
Đau rễ thần kinh
Đau rễ phản ánh một quá trình tổn thương kích thích rễ thần kinh. Có thể do chèn ép cơ học (thoát vị đĩa đệm, chèn ép do xương); do viêm rễ, viêm ngoài màng cứng, viêm màng nhện của tủy sống; do u rễ. Đau rễ thần kinh thường đau theo dải, lan từ thắt lưng xuống chân, tương ứng với vùng phân bố của rễ thần kinh. Đau rễ xuất hiện sau giai đoạn đau thắt lưng cục bộ, đau tăng lên khi đi lại, đứng lâu, ngồi lâu. Đau dội mạnh lên khi ho, hắt hơi, rặn đại tiện. Nằm nghỉ tại giường lại giảm đau nhanh chóng. Đó là kiểu đau mang tính chất cơ học, thường gặp trong cơ chế xung đột giữa đĩa đệm với rễ thần kinh do thoát vị đĩa đệm.
Đau rễ lại xuất hiện khi đi được một đoạn làm bệnh nhân phải dừng lại để nghỉ. Khi đi tiếp một đoạn nữa, đau lại xuất hiện, buộc bệnh nhân phải nằm nghỉ. Người ta gọi đó là hội chứng đau khập khễnh cách hồi.
Trường hợp đau một rễ thần kinh thường gặp trong thoát vị đĩa đệm tầng L4 - L5 (đốt thắt lưng 4 - 5) và thoát vị đĩa đệm L5 - S1 (đốt thắt lưng 5 - xương cùng thứ nhất). Trường hợp thoát vị đĩa đệm hai tầng sẽ gây đau hai rễ thần kinh, thường gặp ở hai đĩa đệm cuối là L4 - L5 và L5 - S1 vì đây là đoạn bản lề của cột sống thắt lưng, nơi chịu sức ép mạnh của tải trọng phần trên cơ thể và sự chuyển động của cột sống về nhiều phía.
Rối loạn cảm giác thường gặp là giảm cảm giác nông (nóng, lạnh, xúc giác) ở những khu vực khoang da tương ứng với rễ thần kinh bị tổn thương. Đây là biểu hiện mức độ tổn thương sâu sắc của rễ thần kinh.
Rối loạn vận động: bại và liệt cơ ở hai chân do rễ thần kinh chi phối.
Rối loạn cơ thắt: trong tổn thương các rễ vùng xương cùng (rễ S3, S4, S5) có biểu hiện lúc đầu bí tiểu sau đái dầm dề, luôn luôn có nước tiểu chảy rỉ ra một cách thụ động do liệt cơ thắt kiểu ngoại vi không giữ được nước tiểu.
Ngoài các triệu chứng trên, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh có những nghiệm pháp khám khách quan như rối loạn phản xạ, rối loạn thần kinh thực vật…

Các giai đoạn tiến triển của thoát vị đĩa đệm.
Và hội chứng đuôi ngựa
Tủy sống tận cùng ở ngang mức đốt sống thắt lưng 2 (L2). Tiếp theo khoanh tủy cuối là nón cùng (hình tam giác giống như cái nón). Đuôi ngựa là hội tụ của các rễ thần kinh thắt lưng cùng, gồm các rễ L2, L3, L4, L5, S1, S2, S3, S4, S5 chi phối thần kinh vận động, cảm giác và dinh dưỡng cho các cơ quan trong chậu hông và hai chân.
Trường hợp đau nhiều rễ thần kinh do chèn ép của khối thoát vị đĩa đệm lớn, nhiều tầng tạo nên bảng lâm sàng như là một khối u, được gọi là hội chứng đuôi ngựa. Đau nhiều rễ cũng ít gặp nhưng rất quan trọng vì thường là khởi đầu của bệnh cảnh hội chứng đuôi ngựa do khối thoát vị đĩa đệm lớn (thể giả u) chèn ép đuôi ngựa. Đặc điểm lâm sàng là đau khốc liệt, người bệnh không thể chịu nổi, đòi hỏi cấp cứu về thần kinh. Đau lại kèm theo liệt cơ, mất cảm giác, rối loạn cảm giác…
Có 3 hội chứng đuôi ngựa tùy theo tầng thoát vị đĩa đệm, có các hội chứng khác nhau:
Hội chứng đuôi ngựa trên: liệt ngoại vi toàn bộ ở hai chân, rối loạn cảm giác hai chân từ nếp bẹn trở xuống, rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi. Thể này ít gặp vì thoát vị đĩa đệm ở đoạn cao (L1 -  L2 và L2 - L3) ít có điều kiện xảy ra.
Hội chứng đuôi ngựa dưới: do thoát vị đĩa đệm L5 - S1, có rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi, rối loạn cảm giác vùng đáy chậu, không có liệt hoặc chỉ liệt một số động tác của bàn chân (rễ L5, S1, S2).
Hội chứng đuôi ngựa giữa: thường gặp do thoát vị đĩa đệm L3 - L4 và L4 - L5. Liệt gấp cẳng chân, liệt các động tác của bàn chân và ngón chân, mất cảm giác toàn bộ ngón chân; mất cảm giác toàn bộ cẳng chân, bàn chân, mặt sau đùi và mông; rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi.
Chẩn đoán xác định viêm đa rễ thần kinh dựa trên cơ sở lâm sàng và các kỹ thuật cận lâm sàng như chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ…

Chữa trị bằng các biện pháp kết hợp
Chế độ vận động: trong thời kỳ cấp tính, nằm nghỉ tại giường là nguyên tắc quan trọng đầu tiên. Tư thế nằm ngửa trên ván cứng, có đệm ở vùng khoeo làm co nhẹ khớp gối và khớp háng.
Điều trị vật lý và các liệu pháp phản xạ: bao gồm phương pháp nhiệt như chườm nóng (túi nước, muối rang, cám rang, lá lốt, lá ngải cứu nóng); dùng các dòng điện tại khoa vật lý trị liệu, điều trị bằng laser; châm cứu.
Dùng thuốc: chủ yếu là dùng các loại thuốc chống viêm, giảm đau, giãn cơ, an thần, trấn tĩnh thần kinh và vitamin nhóm B liều cao (B1, B6, B12). Các thuốc này đều có những chống chỉ định nên phải do thầy thuốc chuyên khoa sử dụng.

Các biện pháp điều trị đặc hiệu khác đều phải điều trị nội trú tại các trung tâm chuyên khoa thần kinh và phẫu thuật thần kinh.

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

Dùng thuốc trong điều trị thoát vị đĩa đệm



Nhờ tính chất đàn hồi nên đĩa đệm làm nhiệm vụ như một bộ phận giảm sóc, giúp cho cột sống thực hiện chức năng vận động của mình (cúi, ngửa, nghiêng...) một cách mềm dẻo. Khi vòng sợi bao quanh bị rách, nhân nhầy thoát ra ngoài khỏi vị trí giữa hai đốt sống, thường là về phía sau gây chèn ép tủy sống hoặc các rễ thần kinh. Hiện tượng trên gọi là thoát vị đĩa đệm. Theo nhiều nghiên cứu, thoát vị đĩa đệm là nguyên nhân chủ yếu chiếm tới 80% các trường hợp đau cột sống thắt lưng.

Có nhiều nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống, trong đó phải kể đến các nguyên nhân hàng đầu là các chấn thương cột sống, sau đó là các tư thế xấu trong lao động. Các chấn thương vào vùng cột sống như ngã ngồi đập mông xuống đất, chấn thương tác động trực tiếp vào vùng cột sống hoặc các tư thế xấu như cúi, nghiêng hay xoay người nhấc vật nặng - đặc biệt nhấc vật nặng ở cách xa người dễ gây thoát vị đĩa đệm.

Tùy theo vị trí đĩa đệm thoát vị có thể có các triệu chứng khác nhau. Thoát vị đĩa đệm ở vùng cột sống thắt lưng hay gặp nhất (trên 90% các trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống) gây đau thắt lưng cấp hay mạn tính, đau thần kinh tọa một hay cả hai bên, đau thần kinh đùi bì. Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ gây đau cổ, đau vai gáy, đau cánh tay: hội chứng cổ - vai - cánh tay. Trường hợp nặng chèn ép vào tủy sống sẽ gây yếu cánh tay hoặc liệt tứ chi.

Điều trị

Tùy theo tính chất tổn thương, vị trí, biến chứng cũng như mức độ ảnh hưởng tới khả năng vận động, lao động và sinh hoạt của người bệnh mà cân nhắc tới các biện pháp điều trị bảo tồn và điều trị can thiệp phẫu thuật.

 Điều trị bảo tồn bao gồm các biện pháp như: nghỉ ngơi; vật lý trị liệu xoa bóp, tắm suối khoáng, đắp bùn; chiếu đèn hồng ngoại, sóng ngắn, điện phân, đắp dầu paraphin... Có thể dùng các biện pháp như tác động cột sống, kéo giãn cột sống trong điều trị bệnh. Một vài tuần đầu tiên, khi tổn thương thoát vị đĩa đệm còn mới chưa bị xơ hóa, việc tác động cột sống làm giãn các mâm sống và dịch chuyển phần đĩa đệm bị lồi trở lại vị trí bình thường. Kéo giãn cột sống bằng dụng cụ cũng có tác dụng tương tự, chỉ định cho lồi hoặc thoát vị đĩa đệm. Mặc áo nẹp cột sống có tác dụng cố định tạm thời, hạn chế các động tác lên vùng cột sống tổn thương, qua đó giảm lực tác động lên đĩa đệm.

Biện pháp dùng thuốc bao gồm các thuốc giảm đau đơn thuần như paracetamol; giảm đau chống viêm không steroid như diclofenac, meloxicam... uống, tiêm hoặc bôi tại chỗ. Lưu ý các thuốc trên dùng đường toàn thân có thể ảnh hưởng tới dạ dày, chức năng gan, thận... Các thuốc giãn cơ như mydocalm, myonal được chỉ định trong trường hợp co cứng cơ cạnh cột sống. Có thể bổ sung các thuốc bổ thần kinh như vitamin B1, B6, B12; các thuốc giảm đau thần kinh như neurontin. Nhìn chung không có chỉ định dùng thuốc giảm đau chống viêm loại steroid như prednisolon, dexamethason... đường toàn thân vì có nhiều tác dụng phụ. Một số trường hợp hãn hữu như đau nhiều không đáp ứng với các biện pháp trên, đặc biệt kèm phù tủy có thể methylprednisolon đường tĩnh mạch liều cao, ngắn ngày, giảm liều nhanh nhưng phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa và phải được theo dõi chặt chẽ các biến chứng. Đối với đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, có thể áp dụng biện pháp dùng thuốc tại chỗ là tiêm ngoài màng cứng bằng hydrocortison với liệu trình mỗi đợt 3 mũi, mỗi mũi cách nhau 3-7 ngày cũng cho hiệu quả giảm đau khá tốt. Tuy nhiên, việc tiêm ngoài màng cứng phải được thực hiện tại cơ sở chuyên khoa khớp có kinh nghiệm, trong điều kiện tuyệt đối vô khuẩn.

Gần đây, người ta bắt đầu sử dụng tia laser, sóng radio qua da để điều trị đau do thoát vị đĩa đệm. Đây là các phương pháp an toàn, tuy nhiên chỉ có hiệu quả khi chỉ định trong những trường hợp nhẹ, nhân nhầy mới chỉ lồi vào ống sống và không có các tổn thương kèm theo như gai xương, xẹp trượt đốt sống, hay phối hợp dày dây chằng vàng.

Phương pháp phẫu thuật ngoại khoa được chỉ định trong các trường hợp sau: thoát vị đĩa đệm gây hội chứng đuôi ngựa (biểu hiện bí đại, tiểu tiện, mất cảm giác đau xung quanh hậu môn và bộ phận sinh dục); có liệt chi; đau quá mức, các thuốc giảm đau không hoặc rất ít tác dụng; sau khoảng 6 tháng áp dụng các biện pháp điều trị nội khoa không có kết quả. Phẫu thuật nhằm giải phóng rễ thần kinh khỏi bị chèn ép. Bao gồm các biện pháp: Kinh điển là mổ cắt cung sau lấy bỏ khối thoát vị - nhìn chung là can thiệp rộng, nhiều biến chứng về sau, đặc biệt là tái phát đau do vết mổ cũ xơ dính. Về sau, các kỹ thuật được cải tiến hơn như phẫu thuật mở nhỏ (mini- open); cắt bỏ đĩa đệm qua da; mổ nội soi lấy nhân thoát vị; mổ nội soi hút nhân nhầy... Trường hợp tổn thương có trượt đốt sống phối hợp gây mất vững có thể cố định cột sống bằng khung kim loại. Phẫu thuật thay đĩa đệm mới nhìn chung ít được chỉ định.

Phòng thoát vị đĩa đệm

Cần rèn luyện để đạt được cơ thể khỏe mạnh và đặc biệt là một cột sống vững chắc ngay từ tuổi trẻ bằng chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý. Giữ gìn tư thế cột sống đúng trong lao động, học tập cũng như sinh hoạt hàng ngày; tránh cúi người khiêng vác vật nặng; tránh mọi chấn thương cho cột sống. 

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Nguyên nhân bị thoát vị đĩa đệm

BS Nguyễn Hữu Công cho biết, tùy vào vùng bị thoát vị đĩa đệm mà người ta đặt tên: thoát vị cột sống cổ, thoát vị cột sống lưng, thoát vị cột sống thắt lưng.

Nguyên nhân gây ra thoát vị đĩa đệm rất đa dạng: do chấn thương, bệnh lý, đặc biệt là do thoái hóa xương theo tuổi tác. Người lao động nặng hoặc chơi các môn thể thao sai tư thế cũng dễ dẫn đến tình trạng thoái hóa đĩa đệm cấp tính...
TS. BS. Ngô Minh Lý - Trưởng khoa Cột sống A (BV Chấn thương Chỉnh hình TP.HCM) cũng cảnh báo, giới văn phòng đang là đối tượng nguy cơ của bệnh này. Nếu cứ ngồi làm việc liên tục, không nghỉ ngơi, theo thời gian, các đĩa cột sống bị quá tải. Tuy nhiên, 90% các trường hợp bị thoat vi dia dem không cần can thiệp phẫu thuật.

Ngồi xe máy nhiều dễ thoát vị đĩa đệm

Giữa hai đốt xương sống có một phần đệm bằng chất sụn, xung quanh có vòng xơ. Nếu đĩa đệm bị phồng ra phía sau và vòng xơ vẫn còn nguyên, chuyên môn gọi là lồi đĩa đệm. Nếu vòng xơ bị rách, đĩa đệm trượt ra ngoài gọi là thoát vị đĩa đệm. Vị trí hay bị thoát vị đĩa đệm nhất là ở cột sống cổ, và cột sống thắt lưng do cột sống cử động nhiều. Cột sống cổ cũng ít bị thoát vị hơn so với cột sống thắt lưng vì thắt lưng chịu đựng sức nặng cơ thể nhiều hơn. Bệnh lý thoát vị liên quan chặt chẽ đến bệnh lý thoái hóa cột sống. Một trong những nguyên nhân gây thoái hóa nhanh chính là ngồi xe máy nhiều, đặc biệt phải đi nhiều trên mặt đường rung, xóc nhiều.
BS Công cho biết thêm: “Đối tượng dễ bị thoái hóa cột sống cổ là nhân viên văn phòng. Có những phụ nữ làm công việc thư ký, chỉ khoảng 25 - 26 tuổi, đã mắc bệnh do phải tập trung tư tưởng, căng cơ cổ, đánh máy nhiều. Đầu và cổ ở tư thế bất động kéo dài, các cơ sau gáy phải liên tục kéo căng; trong tình trạng ấy, nếu máy lạnh hoặc quạt xối thẳng vào người thì còn tệ hại hơn nữa…


Bệnh thoát vị đĩa đệm
Biểu hiện của thoái hóa cột sống cổ là mỏi sau ót, mỏi xuống vai, đau lên đầu. Nếu bị lồi hoặc thoát vị đĩa đệm, gây chèn rễ thần kinh, người bệnh sẽ bị đau lan từ bả vai xuống cánh tay và tới tận ngón tay cái và tay trỏ. Triệu chứng tăng lên khi ngồi xe máy nhiều. Điều cần thiết lúc này là phải đi khám chuyên khoa, hoặc chấn thương chỉnh hoặc thần kinh, để làm các xét nghiệm cần thiết. Vì thoát vị đĩa đệm ở cột sống cổ có thể trầm trọng, chèn ép vào tủy sống cổ và gây liệt tứ chi.”
Trong khi đó, những người lao động nặng ở tư thế cúi gập lưng hoặc bê vác nặng; hay tập các môn thể thao nặng như tennis là đối tượng dễ bị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Các cử động ở thắt lưng đột ngột và mạnh là nguyên nhân gây bệnh. Khi đó, thoát vị đĩa đệm có thể gây ra đau lưng, chèn ép rễ thần kinh khiến cơn đau lan từ hông xuống mông và đến chân. Thông thường, cơn đau này chỉ diễn ra một bên, nếu xảy ra cả hai bên, tình trạng thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng đã trở nên nghiêm trọng.

Không bẻ vặn người đột ngột

Những người làm văn phòng, nên cố gắng ngồi xa máy lạnh. Khi ngồi trên máy tính khoảng 45 phút, cần phải ra ngoài vận động nhẹ nhàng 10 - 15 phút. Nếu bị nhức mỏi sau gáy nhiều, người bệnh có thể tự massage nhẹ nhàng, hoặc cử động cổ một cách từ từ, nhẹ nhàng. Khi thấy đau thì dừng lại ngay. Không nên nhờ người khác bấm, bẻ vặn, xoay, lắc cổ nhiều và nhanh, đột ngột.
BS. Công cho biết, nhiều trường hợp đã bị liệt tứ chi hoàn toàn vì phương pháp “bẻ vặn”. Cách tốt nhất là đi tập vật lý trị liệu để kéo giãn cột sống cổ và cột sống thắt lưng. Đối với những phụ nữ trung niên, khi đã bị thoái hóa cột sống cổ, với những cơn đau lan xuống tay như vậy, không nên chạy, nhảy hoặc aerobic; khi điều khiển xe máy, nên đi chậm, ngồi thẳng lưng, hạn chế đi lại trên các đoạn đường lồi lõm, rung xóc. Những phụ nữ này có thể bổ sung thêm glucosamin kết hợp chondroitin hằng ngày.
Người đau lưng nặng khi ho và hắt hơi sẽ bị đau nhói. Lúc ấy, người bệnh phải nằm một chỗ, trên nệm tương đối cứng và nghỉ ngơi hoàn toàn. Có người quan niệm sai lầm rằng, đi bộ sẽ tốt cho cột sống; nhưng đối với những bệnh nhân bị thoái hóa cột sống thắt lưng và đau thần kinh tọa, càng đi nhiều càng nguy hiểm. Tuy nhiên bệnh nhân có thể đi bơi.
Trong giai đoạn đau cấp, bệnh nhân có thể sử dụng thuốc kháng viêm, thuốc giãn cơ, kết hợp với vật lý trị liệu theo chỉ định của BS chuyên khoa. BS Lý cho biết, đa số các trường hợp đau thần kinh tọa (thoát vị đĩa đệm gây chèn rễ thần kinh) có thể khỏi khi điều trị nội khoa, dù còn hơi ê ẩm và có thể tái phát; chỉ một số ít trường hợp phải phẫu thuật. Đó là những bệnh nhân bị thoát vị kèm biến chứng thần kinh: yếu, liệt chân, ảnh hưởng đến cơ vòng bàng quang dẫn đến rối loạn tiêu tiểu.
Ngoài ra, một bệnh liên quan đến thần kinh mà phụ nữ lớn tuổi thường gặp là hội chứng hẹp ống xương sống thắt lưng, hoặc hội chứng khập khiễng cách hồi. Triệu chứng chung là yếu và tê hai chân khi bước đi, cứ một quãng phải ngồi nghỉ. Yếu chân có thể do mạch máu hoặc thần kinh. Nếu khi bệnh nhân đứng lâu để nấu ăn cũng có cảm giác yếu liệt, có thể do ống xương sống bị hẹp vì thoái hóa cột sống thắt lưng hay thoát vị đĩa đệm. Khi bị hội chứng này, bệnh nhân cần được can thiệp bằng phẫu thuật.